Kinh tế

Khơi thông chính sách, liên kết doanh nghiệp

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện chiếm tỷ trọng trên 45% GDP và 40% giá trị xuất khẩu của cả nước. Toàn vùng có 140 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ...

i hơn 15 ngàn dự án còn hiệu lực, thu nhập bình quân đầu người gấp hơn 2 lần cả nước...

Cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây là tuyến đường kết nối giao thông giữa TP.Hồ Chí Minh với Đồng Nai. Ảnh: K.Giới
Cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây là tuyến đường kết nối giao thông giữa TP.Hồ Chí Minh với Đồng Nai. Ảnh: Vân Nam

TIN LIÊN QUAN
Những con số trên cho thấy vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đóng vai trò “đầu tàu” của cả nước, nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, tăng trưởng của khu vực này đang có dấu hiệu chậm lại.

Tại diễn đàn Vai trò doanh nghiệp (DN) trong phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vừa được tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh ngày 27-9, các chuyên gia, cơ quan quản lý đã có những ý kiến đóng góp thiết thực để “khơi thông” cho phát triển.

* Tạo thế “kiềng ba chân”

Theo Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch - đầu tư, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong 4 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Đây là vùng kinh tế phát triển năng động và có tỷ trọng đóng góp lớn nhất cả nước.

Cụ thể, năm 2018, vùng này đóng góp hơn 45% GDP cả nước, tổng thu ngân sách chiếm 42,6% tổng số thu cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được xem là động lực đầu tàu, trung tâm kinh tế, thương mại, văn hóa, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học chất lượng cao của cả nước và khu vực. Vùng này còn là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao và là nơi chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ hàng đầu của cả nước, thực hiện vai trò cầu nối với các khu vực đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Tây nguyên, hạt nhân là TP.Hồ Chí Minh.

Thể chế kinh tế có nhiều điểm “nghẽn”, liên kết vùng lỏng lẻo và đặc biệt sự phát triển của DN còn bị nhiều yếu tố tác động là vấn đề đặt ra cần phải giải quyết cho sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

TS.Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) chia sẻ: “Hiện nay, chúng ta nói nhiều đến hội nhập quốc tế với những hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nhưng chưa chú trọng liên kết DN trong nước với nhau. Muốn hội nhập thành công, trước hết phải liên kết được DN trong nước, tạo lan tỏa  tốt trong các địa phương. Hơn bất cứ khu vực nào, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải đi đầu trong liên kết, lan tỏa, hội nhập lẫn nhau”.

Cũng theo ông Lộc, muốn thực hiện mục tiêu này cần có tầm nhìn bao quát, có vai trò của Nhà nước đề ra những chính sách phát triển vùng hợp lý. Cụ thể là Nhà nước dẫn dắt còn DN đóng vai trò trung tâm trong hệ thống nền kinh tế. TS.Vũ Tiến Lộc đánh giá, hiện các địa phương trong khu vực đều có hiệp hội DN, nhưng trong tổng thể vùng kinh tế trọng điểm lại thiếu cơ chế liên kết giữa các hiệp hội với nhau. Chủ tịch VCCI nhấn mạnh, chính các DN, hiệp hội DN phải đề xuất và là trung tâm kết nối DN vùng, xác định phát triển công nghệ thế nào, logistics ra sao. “Qua rồi thời kỳ chỉ nghĩ tới việc cạnh tranh với nhau, đây là thời các dự án của TP.Hồ Chí Minh phải tạo ra mạng lưới cho các địa phương khác phát triển và phải tạo được chuỗi giá trị không bao giờ đóng khung trong một địa phương, sự phát triển của một địa phương này là tiền đề cho các địa phương khác” - ông Lộc nói.

Cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây là tuyến đường kết nối giao thông giữa TP.Hồ Chí Minh với Đồng Nai. Ảnh: K.Giới
Cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây là tuyến đường kết nối giao thông giữa TP.Hồ Chí Minh với Đồng Nai. Ảnh: K.Giới

 Đại diện cho cộng đồng DN, TS.Vũ Tiến Lộc kiến nghị cần có ban chỉ đạo khu vực, Phó thủ tướng làm trưởng ban. Cùng với đó, cần có một hội đồng vùng trên cơ sở phối hợp của các địa phương. Một hội đồng DN trên cơ sở tương tác giữa các DN. Đây là “kiềng ba chân” cho sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Đồng quan điểm này, ông Nguyễn Như Triển, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam, Viện Chiến lược phát triển (thuộc Bộ Kế hoạch - đầu tư) nhận định, vai trò dẫn dắt của Nhà nước trong phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay còn rất mờ nhạt, chủ yếu mang tính tự phát của từng địa phương. Ông Triển cũng chỉ ra, sự tăng trưởng nhanh trong giai đoạn trước là do quy mô vùng kinh tế trước đó còn nhỏ, chính sách phát triển phát huy hiệu quả. Khi quy mô kinh tế lớn hơn lại thiếu sự dẫn dắt, trong khi hệ thống pháp luật còn chồng chéo khiến liên kết khó khăn, thậm chí kìm hãm sự phát triển.

Sản xuất đèn trang trí xuất khẩu tại Công ty TNHH Chiếc lá xanh, Khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom)
Sản xuất đèn trang trí xuất khẩu tại Công ty TNHH Chiếc lá xanh, Khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom)

Về vấn đề liên kết và liên kết cái gì, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam cho rằng, Hội đồng vùng phải dẫn dắt vấn đề này. Ông Triển chia sẻ: “Kinh nghiệm các nước như Cộng hòa liên bang Đức cũng có ba loại thể chế vùng là: vùng hành chính, đại diện vùng và hiệp hội vùng. Nhật Bản có một hội đồng vùng nhưng có ngân sách cho hội đồng vùng và không kiêm nhiệm”.  Ông Triển cũng kiến nghị, hội đồng vùng phải hoạt động theo cơ chế không kiêm nhiệm và phải có ngân sách để hoạt động, nguồn ngân sách được tạo ra từ các dự án trong vùng và chính các tỉnh phải có nghĩa vụ đóng góp để hoạt động hội đồng vùng có hiệu quả.

* Tự chủ ngân sách cho các địa phương

Theo Vụ phó Vụ Ngân sách Nhà nước (Bộ Tài chính) Đào Xuân Tuế, những năm qua, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ý kiến về việc phân bổ số chi ngân sách trở lại cho các tỉnh, thành quá thấp so với tổng số thu, việc này Trung ương cũng đã nghiên cứu và có hướng điều tiết dần.

Ông Tuế cho hay, trong thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020, định mức phân bổ ngân sách đã có những quy định tăng nguồn lực cho các địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Đồ họa thể hiện tỷ trọng vốn đầu tư từ các khu vực kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam so với cả nước trong năm 2018 và ước tính nhu cầu vốn trong các khu vực kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2020-2030 - Nguồn: Số liệu phân tích của TS.Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Trường đại học Fulbright Việt Nam. (Đồ họa: Hải Quân)
Đồ họa thể hiện tỷ trọng vốn đầu tư từ các khu vực kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam so với cả nước trong năm 2018 và ước tính nhu cầu vốn trong các khu vực kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giai đoạn 2020-2030 - Nguồn: Số liệu phân tích của TS.Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Trường đại học Fulbright Việt Nam. (Đồ họa: Hải Quân)

Theo đó, TP.Hồ Chí Minh được phân bổ thêm 70% số chi tính theo định mức dân số, các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu được phân bổ thêm 40%. Chính phủ cũng ưu tiên thêm cho những địa phương có tỷ lệ đóng góp về ngân sách trung ương và những địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm. “Với nguồn lực ngân sách có được, cơ chế điều tiết ngân sách hiện nay đã ưu tiên đảm bảo nguồn lực cho các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy nhiên, so với nhu cầu đầu tư phát triển, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng thì mới chỉ đáp ứng được một phần” - ông Đào Xuân Tuế nói.

Theo Viện Nghiên cứu phát triển TP.Hồ Chí Minh, mô hình quản trị vùng được đánh giá là phù hợp nhất với thực tế của các vùng kinh tế trọng điểm. Để điều phối các hoạt động liên kết giữa các tỉnh, thành trong vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình quản trị vùng, bộ máy điều phối vùng cần được thiết lập bao gồm: ban chỉ đạo vùng, hội đồng tư vấn vùng và ban thư ký vùng.

Để phát huy tiềm năng thực sự của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, TS.Trần Du Lịch, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, cần có sự đổi mới mang tính đột phá về tư duy “phát triển kinh tế vùng” thay cho tư duy “kinh tế tỉnh”. Thí điểm cơ chế tự chủ ngân sách cho 4 địa phương là TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu theo hướng giảm bớt phần lồng ghép ngân sách nhà nước giữa Trung ương và địa phương, ổn định tỷ lệ phân chia ngân sách giữa Trung ương và địa phương theo Luật Ngân sách trong 5 năm.

Cũng theo ông Trần Du Lịch, trong đầu tư cho các địa phương cần xem việc xây dựng hệ thống giao thông kết nối là tiền đề của liên kết phát triển vùng và là điều kiện để xây dựng các đô thị mới. Trước mắt, tập trung nguồn lực để phát triển hệ thống giao thông vùng đã được quy hoạch đến năm 2020 và 2030; đồng thời lập quỹ đầu tư giao thông vùng từ các nguồn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, nguồn thu từ đất đô thị hóa do hệ thống giao thông tạo ra hay từ nguồn tín dụng ưu đãi… ”Trong tương lai, nếu giải quyết tốt đây sẽ là nơi đến tất yếu của DN trong và ngoài nước” - TS.Trần Du Lịch khẳng định.

Khắc Giới - Vương Thế


 Ông Nguyễn Hồng Long, Phó ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN Trung ương:

Phải thực hiện ba đột phá chiến lược

“Về định hướng phát triển trong tương lai, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2030 trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động khó lường, đòi hỏi đất nước phải thực hiện ba đột phá chiến lược gồm: hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng và phát huy nguồn nhân lực.

Để thực hiện điều này, cần đến bản lĩnh để phát huy thành tựu, đổi mới chiến lược với quan điểm gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định chính trị xã hội cho phát triển nhanh, bền vững; đổi mới mạnh mẽ thể chế pháp luật, chuyển đổi sang kinh tế thị trường hiện đại hội nhập, phục vụ người dân, DN, hướng tới nền kinh tế số, xã hội số; phát huy sức mạnh nội lực gắn với thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ, phát triển khu vực tư nhân năng động, sáng tạo, lấy DN làm trung tâm, động lực cho phát triển; xây dựng nền kinh tế độc lập có sức chống chịu và khả năng thích ứng cao”.

  Ông Đặng Vũ Trân, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý DN, Bộ Nông nghiệp -̀ phát triển nông thôn:
Cần thu hút các DN đầu tư ứng dụng công nghệ cao

“Cả nước hiện có hơn 50 ngàn DN đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, kinh doanh vật tư nông nghiệp và các dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp. Đối với thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi, vừa qua Bộ Nông nghiệp - phát triển nông thôn đã tổng kết, cả nước hiện thành lập được hơn 1,25 ngàn chuỗi với trên 1,45 ngàn sản phẩm và gần 3,2 ngàn điểm tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã kiểm soát theo chuỗi. Tuy nhiên, sự phát triển của các DN trong lĩnh vực nông nghiệp còn rất khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế phát triển.

Về lâu dài cần phải rà soát, đánh giá tổng thể và nhận biết vấn đề cốt lõi để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm phát triển DN nông nghiệp, đẩy mạnh liên kết ngành, thu hút các DN đầu tư ứng dụng công nghệ cao, tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”.

Ông Shinji Hirai, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến mậu dịch Nhật Bản tại TP.Hồ Chí Minh (JETRO):

Nên có giải pháp tốt cho logistics để thu hút đầu tư

“DN Nhật Bản khi muốn mở rộng đầu tư thì Việt Nam luôn là điểm đến phổ biến thứ 2. TP.Hồ Chí Minh được xem như trung tâm mà các DN của Nhật Bản chọn tại Việt Nam, tiếp đến là các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai… Các nhà đầu tư cũng đang xem xét đến môi trường đầu tư của các tỉnh khác trong vùng để phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh của mình. Tôi hy vọng các địa phương trong vùng sẽ tìm ra một giải pháp để cải thiện tốt nhất vấn đề logistics để thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản”.

TS.Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Trường đại học Fulbright Việt Nam:

Cơ cấu vốn đầu tư chưa đồng đều

 “Năm 2018, TP.Hồ Chí Minh có dân số chiếm hơn 40%, tiếp đến là Đồng Nai với 15%, Bình Dương là 11%... của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong khi đó, cơ cấu vốn đầu tư xã hội tại TP.Hồ Chí Minh lại chiếm tới 56%, Bình Dương chỉ ở mức 12% và Đồng Nai ở mức 11%. Việc chênh lệch trong các nguồn thu chi ngân sách, cơ cấu dân số vùng, cơ cấu vốn đầu tư xã hội cũng như cơ cấu GDP cho thấy chất lượng môi trường kinh doanh lẫn cơ sở hạ tầng các địa phương trong vùng, đặc biệt là TP.Hồ Chí Minh với các tỉnh khác không đồng đều”.             

Vân Nam - Văn Gia (ghi)


Đồng Nai

© 2021 FAP
  3,285,701       1/1,090